Newton một
nhà vật lý, toán học thiên tài cũng là một Nhà đầu tư Chứng khoán. Kết quả kinh
doanh của ông: phá sản với câu nói nổi tiếng của mình “Tôi có thể cân được khối
lượng của linh hồn nhưng không thể đo được sự điên rồ của con người”. Câu
chuyện trên là một ví dụ về phân tích kỹ thuật bằng phép cân linh hồn của
Newton. Vậy bản chất phân tích kỹ thuật là gì và tại sao một thiên tài về cân
đo đong đếm như Newton vẫn có thể thất bại trên thị trường? Bài viết này sẽ
giới thiệu tổng quan về phân tích kỹ thuật: khái niệm, các yếu tố liên quan và
cách thức sử dụng chung.
1. Phân tích kỹ thuật là gì
Phân
tích kỹ thuật sử dụng các mô hình toán học (đồ thị, biến đổi miền, xác suất
thống kê,…) dựa trên dữ liệu thu thập về thị trường trong quá khứ và hiện tại
để chỉ ra trạng thái của thị trường tại thời điểm xác định, thông thường là
nhận định xu hướng thị trường đang lên, xuống hay “dập dềnh” hoặc nhận định
tương quan lực lượng giữa sự tăng và sự giảm giá. Phân tích kỹ thuật không để ý
đến các chỉ số tài chính, tình hình phát triển hay các thông tin về thị trường
về doanh nghiệp mà chỉ chú trọng vào tập các dữ liệu về giá cả, khối lượng, …
của cổ phiếu thu thập được tại các phiên giao dịch trong quá khứ.
Chính
vì chỉ dựa vào tập dữ liệu đã tồn tại trên thị trường – tức là các thông tin
trong quá khứ - phân tích kỹ thuật không phải là công cụ để dự đoán tương lai
giá cả của cổ phiếu. Những kết luận thu được từ các biện pháp phân tích kỹ
thuật chỉ thị trạng thái của thị trường đã xảy ra trong quá khứ; thời điểm rút
ra kết luận về trạng thái của thị trường luôn luôn đi sau so với sự kiện đã xảy
ra. Khoảng thời gian chênh lệch đó gọi là độ trễ. Xét ví dụ về một phương
pháp phân tích kỹ thuật sử dụng trung bình động.
Giá Chứng khoán trong 5 phiên
đến ngày 18/05/2007 của Công ty cổ phần nhựa Đồng Nai – Mã Chứng khoán Doanh
nghiệp
Ngày |
Giá |
Thay
đổi |
%thay
đổi |
Khối
lượng |
18/05 |
76.000 |
2.000 |
2,70% |
56.350 |
17/05 |
74.000 |
2.000 |
2,78% |
36.190 |
16/05 |
72.000 |
-3.500 |
-4,64% |
43.350 |
15/05 |
75.500 |
3.500 |
4,86% |
30.550 |
14/05 |
72.000 |
3.000 |
4,35% |
52.750 |
(Nguồn SSI)
Vậy
giá trị trung bình động trong 5 phiên của Doanh nghiệp vào ngày 18/05/2007
là (76.000 + 74.000 + 72.000 + 75.500 + 72.000) / 5 = 73.900 đTập hợp các
giá trung bình động của Doanh nghiệp trong các ngày khác nhau sẽ được đường
trung bình động giá trong 5 phiên của Doanh nghiệp
Bằng
mắt thường quan sát đường trung bình động có thể nhận định rằng xu thế của
Doanh nghiệp đến thời điểm ngày 18/05/2007 là tăng giá, liệu sau ngày
18/05/2007 giá Cổ phiếu của Doanh nghiệp có tiếp tục tăng không? Trở lại
với câu chuyện về Newton, với khả năng toán học của mình, việc am hiểu và áp
dụng các biện pháp toán học trong phân tích kỹ thuật đối với ông không phải là
điều khó khăn. Nhưng phân tích thị trường không phải là khoa học chính xác,
không thể dùng toán học để dự đoán một mong đợi 100%; do đó sự thất bại của
Newton là một điều hợp lý bởi ông không thể dự đoán được tương lai chỉ bằng
phép cân khối lượng của linh hồn.
2. Các thuộc tính và tính chất
Một
phép phân tích kỹ thuật thông thường có các thuộc tính và tính chất sau.
-
Số phiên tính toán: số phiên lấy dữ liệu tính toán cho một giá trị của phân
tích. Trong ví dụ về trung bình động của Doanh nghiệp ở phần đầu, số phiên lấy
dữ liệu là 5 phiên. Nhà đầu tư càng ngắn hạn bao nhiêu thì càng chọn số phiên
tính toán càng nhỏ bấy nhiêu.
-
Độ trễ: Khoảng thời gian từ lúc trạng thái thị trường đã xảy ra cho đến khi
phép phân tích chỉ ra được trạng thái đó. Trong cùng 1 phương pháp phân tích,
số phiên tính toán càng lớn thì độ trễ càng lớn. Nhà đầu tư càng ngắn hạn bao
nhiêu thì càng mong muốn độ trễ nhỏ bấy nhiêu.
-
Độ nhạy: Sự kịp thời trong phản ánh các biến động của thị trường của thị
trường.. Tính chất này ngược lại với độ trễ.
-
Độ chính xác: Tính ít sai xót trong phản ánh các biến động của thị trường. Tuy
nhiên độ chính xác và độ nhạy lại đối nghịch với nhau.
3. Vai trò của phân tích kỹ thuật
Phân
tích kỹ thuật đóng vai trò là công cụ trợ giúp Nhà đầu tư với ba chức năng
chính: báo động, xác thực và dự đoán.
Với
vai trò là công cụ báo động, phân tích kỹ thuật cảnh báo sự xuyên phá các
ngưỡng an toàn (resistance và support: chúng ta sẽ tìm hiểu về hai khái niệm
này trong các bài viết khác) và thiết lập nên các ngưỡng an toàn mới hay nói
cách khác là thiết lập mức giá mới thực sự thay vì dao động quanh một mức giá
cũ. Đối với Nhà đầu tư việc nhận biết các dấu hiệu về sự thay đổi mức giá càng
sớm càng tốt giúp cho họ sớm có hành động mua vào hoặc bán ra kịp thời.
Với
vai trò là công cụ xác nhận, mỗi phương pháp phân tích kỹ thuật được sử dụng
kết hợp với các phương pháp kỹ thuật khác hoặc các phương pháp phi kỹ thuật để
xác nhận về xu thế của giá. Việc kết hợp và bổ trợ lẫn nhau giữa các phương pháp
kỹ thuật khác nhau giúp Nhà đầu tư có được kết luận chính xác và tối ưu hơn.
Với
vai trò là công cụ dự đoán, Nhà đầu tư sử dụng các kết luận của phân tích kỹ
thuật để dự đoán giá cả của tương lai với kỳ vọng về khả năng đoán tốt hơn. Tuy
nhiên như trên đã nói, bản chất của phân tích kỹ thuật không phải là dự báo
tương lai mà là chỉ thị trạng thái thị trường trong quá khứ với một độ trễ; do
đó nếu sử dụng như một công cụ dự đoán Nhà đầu tư cần phải tính đến một xác
suất an toàn và chấp nhận rủi ro khi dự đoán là không phù hợp. Không ai có thể
nói trước tương lai chỉ bằng thông tin trong quá khứ. Tuy nhiên nhờ có phân
tích kỹ thuật, khả năng đoán sai do đoán mò hoặc a dua đám đông được hạn chế
rất nhiều.
Mỗi
phương pháp kỹ thuật được áp dụng sẽ thể hiện các vai trò trên với các ưu nhược
điểm khác nhau. Chi tiết về các vai trò sẽ được nêu trong các bài viết trình
bày cụ thể về từng phương pháp.
4. Biến động giá, Resistance và Support
Giá một Cổ phiếu biến động liên tục trên thị trường theo thời gian trải qua nhiều giai đoạn khác nhau. Trên quan điểm phân tích kỹ thuật, sự biến động giá trong một giai đoạn nhất định được chia làm 2 loại: “dập dềnh” (trading market) và có xu thế (trending market). Biến động có xu thế được chia ra làm hai loại là biến động tăng và biến động giảm (trending up và trending down). Các loại biến động này đều có thể nhận ra bằng mắt thường hoặc thực hiện thống kê.
Biến động “dập dềnh” là giai đoạn giá Cổ phiếu thực sự tăng và không thực sự giảm. Trong giai đoạn này, giá của Cổ phiếu liên tục dao động lúc lên lúc xuống nhưng xoay quanh một mức giá cố định. Trong một vài phiên ngắn hạn giá cả có thể đi lên hoặc đi xuống nhưng nhìn chung trong cả thời kỳ giá không lên và cũng không xuống.
Biến
động có xu thế là giai đoạn giá Cổ phiếu đi lên hoặc đi xuống rõ ràng. Mặc dù
có sự tăng và giảm giá xen kẽ trong ngắn hạn một vài phiên nhưng nhìn chung
trong cả giai đoạn giá theo xu hướng đi lên hoặc đi xuống. Nếu giá đi lên ta
gọi là giai đoạn biến động tăng, nếu giá đi xuống ta gọi là biến động giảm
Hình
trên là ví dụ về các giai đoạn biến động giá các nhau. Các dải nằm giữa hai
đường màu xanh và màu đỏ là là các biến động dập dềnh không có xu hướng tăng
hay giảm. Mỗi giai đoạn biến động dập dềnh đều có hai giá trị ngưỡng là
Resistance và Support (Tạm dịch là kháng cự và hỗ trợ). Hai giá trị ngưỡng này
là phạm vi dao động giá của biến động dập dềnh. Theo đó sự xuyên phá hai ngưỡng
này đồng nghĩa với việc thị trường không còn ở giai đoạn biến động dập dềnh nữa
mà đã chuyển sang biến động có xu thế. Nếu giá vượt lên trên ngưỡng Resistance
thì thị trường đã chuyển sang xu thế biến động tăng, phe bò tót thắng thế. Nếu
giá trị vượt xuống dưới ngưỡng Support thì thị trường đã chuyển sang xu thế
biến động giảm, phe gấu đã thắng.
5. Biến động giá và nhiệm vụ của phân tích
Trải
qua nhiều giai đoạn khác nhau, giá của Cổ phiếu trải qua nhiều loại biến động.
Đối với mỗi giai đoạn biến động dập dềnh hoặc có xu thế, các câu sau hỏi được
đặt ra đối với phân tích kỹ thuật:
·
Nếu
Cổ phiếu đang ở giai đoạn biến động dập dềnh thì giai đoạn tiếp theo là biến
động tăng hay biến động giảm?
·
Nếu
Cổ phiếu đang ở giai đoạn biến động có xu thế thì thời điểm hiện tại đã là lúc
kết thúc chưa hay biến động có xu thế này vẫn còn tiếp tục và kéo dài trong bao
lâu?
·
Nếu
Cổ phiếu đang ở giai đoạn biến động có xu thế thì sau khi kết thúc biến động
này thì giai đoạn tiếp theo liệu có phải là giai đoạn biến động theo xu thế
ngược lại không hay sẽ biến động dập dềnh?
Nếu
giải đáp được các câu hỏi trên Nhà đầu tư sẽ nhanh chóng có được quyết định mua
vào hoặc bán ra đúng đắn, đặc biệt đối với các chuyên gia lướt sóng kiếm lợi
nhuận bằng giá chênh lệch khi bán và khi
mua:
·
Nếu
Cổ phiếu đang ở giai đoạn biến động dập dềnh mà giai đoạn tiếp theo là biến
động tăng thì nên mua vào. Khi giá đã lên cao hơn có thể bán ra để kiếm lời.
Ngược lại nếu giai đoạn tiếp theo là biến động giảm thì nên bán ra để tránh
lỗ.
·
Nếu
xu thế hiện tại là xu thế tăng và đang ở giai đoạn đầu của xu thế này thì nên
mua vào thuận theo xu thế để bán ra khi giá đã lên cao hơn.
·
Ngược
lại nếu xu thế hiện tại là xu thế giảm và đang ở giai đoạn đầu của xu thế này
thì nên bán ra thuận theo xu thế để giảm lỗ. Khi giá đã xuống thấp hơn có thể
mua vào lại để bán ra khi thị trường phục hồi.
Việc
áp dụng một phép phân tích kỹ thuật cần phải giải đáp được một vài trong số các
câu hỏi trên, cũng có khi phải phối hợp các phép phân tích kỹ thuật và phi kỹ
thuật khác để trả lời được nhiều hơn một câu hỏi và tăng độ chính xác cho mỗi
câu trả lời.
6. Phân loại các biện pháp phân tích kỹ thuật
a.
Phân tích tương quan (Leading Indicators)
Các
phương pháp phân tích tương quan chỉ ra tương quan lực lượng giữa sự tăng giá
và sự giảm giá, tương quan lực lượng giữa phe mua và phe bán trong một thời kỳ
xác định. Sự tương quan đó ánh xạ thành một giá trị đại diện xác định. Nếu sự
tăng giá là lớn hơn sự giảm giá thì giá trị này lớn, nếu sự tăng giá là nhỏ hơn
sự giảm giá thì giá trị này nhỏ. Sự tăng giá càng áp đảo bao nhiêu thì giá trị
này càng lớn bấy nhiêu, sự giảm giá càng áp đảo bao nhiêu thì giá trị này càng
nhỏ bao nhiêu. Tên tiếng anh của nhóm phương pháp này là Leading Indicators –
leading có nghĩa là dẫn dắt hàm ý chỉ ra sự tăng giá hay sự giảm giá đang giữ
thế chủ đạo trên thị trường, dẫn dắt diễn biến của thị trường.
b. Phân tích xu thế (Lagging
Indicators)
Các phương pháp thuộc nhóm này chỉ ra xu thế chung của thị trường trong một thời kỳ xác định. Xu thế đó có thể là tăng giá, có thể là giảm giá hoặc trạng thái “dập dềnh”. Theo cách đó nếu chỉ dựa vào 1 giá trị tính toán được của phương pháp này thì không đủ để nhận định xu thế của thị trường mà phải dựa vào một dãy các giá trị của các thời kỳ khác nhau để vẽ nên đường xu thế của thị trường (Xem lại ví dụ ở phần đầu về công ty cổ phần nhựa Đồng Nai).
Các
phương pháp phân tích xu thế có tính chất trễ nghĩa là khi phát hiện ra dấu
hiệu thị trường đang theo xu thế tăng hay giảm giá thì thực chất xu thế này đã
xảy ra – vì vậy tên tiếng Anh của phương pháp này là Lagging Indicators với
lagging có nghĩa là trễ.
Phân
tích xu thế không trực tiếp phát sinh các tín hiệu mua và bán cho các Nhà đầu
tư nhưng phân tích xu thế xác nhận và bổ sung tính chất đúng đắn trong các
quyết định mua và bán của Nhà đầu tư. Tuy nhiên Khi sử dụng phân tích xu thế
cần chú ý khi thị trường biến động dập dềnh sẽ làm mất tác dụng của phân tích
xu thế. Chi tiết hơn về sử dụng phân tích xu thế sẽ được nên trong các phần
sau.
c. Phối hợp sử dụng phân tích
tương quan và phân tích xu thế
Phân
tích tương quan cung cấp những tín hiệu cảnh báo sớm về tiềm năng của thị
trường. Những cảnh báo sớm này tỏ giúp cho các Nhà đầu tư nhanh chóng đưa ra
quyết định mua và bán phù hợp. Phân tích xu thế tuy không đưa ra được các tín
hiệu nhanh chóng như phân tích tương quan nhưng phân tích xu thế là một công cụ
xác thực tính đúng đắn của phân tích tương quan. Phân tích tương quan chỉ có
thể cảnh báo chính xác nhất nếu được kết hợp với phân tích xu thế, giảm thiểu
các tín hiệu không chính xác, giảm rủi ro cho Nhà đầu tư. Chi tiết hơn về việc
sử dụng phối hợp phân tích tương quan và phân tích xu thế sẽ được nêu trong các
phần sau.
7. Nghịch lý
Mong
đợi của Nhà đầu tư là có một phân tích nhạy cảm ánh xạ kịp thời các biến động
của thị trường, đồng thời phải mô tả chính xác ý nghĩa của các biến động đó.
Tuy nhiên hai yếu tố nhạy cảm và chính xác không bao giờ song hành. Nếu một
phương pháp càng nhạy bén với các biến động của thị trường thì nó càng phản ánh
thiếu chính xác trạng thái của thị trường. Sử dụng phân tích kỹ thuật quá nhạy
và thiếu chính xác, nhà đầu tư sẽ nhận được các kết luận sai lầm dẫn đến các
quyết định sai lầm. Ngược lại một phương pháp nếu muốn mô tả thị trường càng ít
sai sót bao nhiêu thì nó càng phải ít nhạy với các biến động thị trường nghĩa
là luôn đi sau sự biến động của thị trường. Nếu sử dụng phân tích quá chính xác
lại không nhạy cảm, Nhà đầu tư sẽ chậm chân để mất cơ hội làm ăn vì kết luận
chính xác được rút ra là quá muộn.
8. Máy hiển thị giao động và phân tích tương quan
Do
phân tích tương quan đóng vai trò phát sinh các tín hiệu mua và bán chủ đạo, vì
vậy cần nghiên cứu chi tiết hơn về phân tích tương quan với công cụ phổ biến
của nó là máy hiển thị dao động. Máy hiển thị dao động là đồ thị các giá
trị của một phân tích tương quan theo thời gian. Mục này sẽ nêu các yếu tố phân
tích sử dụng trong máy hiển thị dao động để phát hiện và củng cố các quyết định
mua và bán của Nhà đầu tư. Các yếu tố phân tích sử dụng trong máy dao động
a.
Phân kỳ
Phân
kỳ đóng vai trò phát sinh các tín hiệu mua và bán hoặc giữ vai trò là một cảnh
báo về sự thay đổi xu thế. Có 2 loại phân kỳ là phân kỳ dương và phân kỳ âm.
Phân kỳ dương là phân kỳ mà giá trị của phân tích tăng nhưng giá của Chứng
khoán đang có xu hướng giảm; phân kỳ dương báo hiệu về sự thay đổi xu hướng sắp
tới của giá là tăng giá.
Phân
kỳ âm là phân kỳ mà giá trị của phân tích giảm nhưng giá của Chứng khoán tăng;
phân kỳ âm báo hiệu về sự thay đổi xu thế sắp tới sẽ là giảm giá. Điều này
không có nghĩa là tại thời điểm mà Nhà đầu tư nhìn thấy chu kỳ dương hoặc chu
kỳ âm thì xu thế giá sẽ thay đổi trong tương lai gần, rất khó xác định khi nào
sự thay đổi xu thế sẽ xảy ra.
Vì
vậy không thể ra quyết định mua hoặc bán chỉ dựa vào phân kỳ mà phải sử dụng
với vai trò củng cố bổ trợ với các tín hiệu khác.
b. Siêu mua /Siêu bán
Siêu
mua và siêu bán là hai ngưỡng giá trị của phân tích. Mọi giá trị nằm trên
ngưỡng siêu mua thì tại đó nó thể hiện phe bò tót đang thắng thế áp đảo trên
thị trường, giá Cổ phiếu tăng. Mọi giá trị nằm dưới ngưỡng siêu bán là giá trị
mà tại đó nó thể hiện phe gấu đang thắng thế áp đảo khiến giá Cổ phiếu giảm. Phân
tích việc xuyên phá các ngưỡng giá trị này nhằm chỉ ra khi giá Cổ phiếu đang
biến động dập dềnh nhằm chỉ ra xu thế sắp tới của giá Cổ phiếu sẽ là tăng giá
hay giảm giá.
Trong
trường hợp giá Cổ phiếu biến động có xu thế, sử dụng các ngưỡng siêu mua hoặc
siêu bán thường hay cho tín hiệu không phù hợp nếu việc mua và bán đi ngược lại
xu thế của thị trường.
Tuy
nhiên vẫn có thể sử dụng các tín hiệu mua hoặc bán khi giá trị siêu mua hoặc
siêu bán bị xuyên phá nhưng phải thuận theo xu thế chung thị trường mà không
được đi ngược lại. Cụ thể nếu có tín hiệu mua và biến động là tăng thì có thể
mua, nếu có tín hiệu bán và biến động là giảm thì có thể bán; xu thế càng mạnh
mẽ thì tín hiệu càng đáng tin cậy.
Nếu
đi ngược lại xu thế: mua khi đang biến động giảm hoặc bán khi biến động tăng
thì nhiều khả năng các tín hiệu mua hoặc bán được sinh ra do sự xuyên phá các
ngưỡng siêu mua hoặc siêu bán này không đáng tin cậy.
c. Đường trung bình
Đường
trung bình là ngưỡng trung bình giá trị của phân tích. Sự xuyên phá ngưỡng này
báo hiệu sự đổi chiều phần thắng thuộc về phe bò tót hay gấu. Nếu sự xuyên phá
là vượt ngưỡng trung bình, thế trận đổi chiều nghiêng phần thắng về phe bò tót.
Ngược lại nếu sự xuyên phá là xuống dưới ngưỡng trung bình điều đó có nghĩa thế
trận đổi chiều nghiêng phần thắng về phe gấu.
9. Nhận biết các tín hiệu mua và bán
Để
đưa ra các quyết định mua và bán hợp lý, cần có một số tín hiệu khác nhau bổ
trợ lẫn nhau nhằm tăng cường độ chính xác của các tín hiệu và giảm thiểu rủi ro
đối mới mỗi quyết định. Các dấu hiệu sau được sử dụng để báo hiện việc mua hoặc
bán:
·
Nếu
giá trị của máy dao động từ dưới vượt qua ngưỡng siêu mua rồi quay trở lại
xuống dưới ngưỡng này, đồng thời xu thế giá là đi xuống hoặc biến động dập
dềnh. Điều đó cảnh báo thị trường sẽ chuyển sang xu thế giảm giá hoặc đang ở
giai đoạn đầu của xu thế giảm giá. Đây là tín hiệu bán ra.
·
Nếu
giá trị của máy dao động từ dưới vượt qua ngưỡng siêu bán rồi quay trở lại lên
trên ngưỡng này, đồng thời xu thế giá là đi lên hoặc biến động dập dềnh. Điều
đó cảnh báo thị trường sẽ chuyển sang xu thế tăng giá hoặc đang ở giai đoạn đầu
của xu thế tăng giá. Đây là tín hiệu mua vào.
·
Nếu
xu thế giá đang tăng mạnh, khi giá trị của máy dao động vượt qua ngưỡng siêu
mua có nghĩa là đang ở giai đoạn đầu của xu thế tăng giá và sẽ tiếp tục tăng.
Đây là tín hiệu mua vào.
·
Nếu
xu thế giá đang giảm mạnh, khi giá trị của máy dao động vượt qua ngưỡng siêu
bán có nghĩa là đang ở giai đoạn đầu của xu thế giảm giá và sẽ tiếp tục giảm,
Đây là tín hiệu bán ra.
·
Nếu
giá trị máy dao động đang ở dưới ngưỡng siêu bán nhưng có sự xuất hiện của phân
kỳ dương thì đó là tín hiệu mua vào.
Chú
ý tính thuận theo xu thế: nếu thị trường ở trạng thái dập dềnh hoặc xu thế là
tăng hoặc giảm nhẹ thì có thể mua, nếu thị trường ở trạng thai giảm mạnh thì
tín hiệu này không đáng tin.
·
Nếu
giá trị máy dao động đang ở trên ngưỡng siêu mua nhưng có sự xuất hiện của phân
kỳ âm thì đó là tín hiệu bán ra. Chú ý tính thuận theo xu thế: nếu thị trường ở
trạng thái dập dềnh hoặc xu thế là giảm hoặc tăng nhẹ thì có thể bán, nếu thị
trường ở trạng thái tăng mạnh thì tín hiệu này không đáng tin.
·
Nếu
giá trị máy dao động tăng vượt qua giá trị trung bình và có sự xuất hiện của
phân kỳ dương và xu thế giá đi lên thì đó là tín hiệu mua vào.
·
Nếu
giá trị máy dao động giảm xuống xuyên qua giá trị trung bình và có sự xuất hiện
của phân kỳ âm và xu thế giá đi xuống thì đó là tín hiệu bán ra. Xét ví dụ
về sử dụng ngưỡng siêu mua và siêu bán của phân tích RSI đối với cổ phiếu Công
ty Cổ phần Hàng Hải Hà Nội - MHC
10. Kết luận
Phân
tích Chứng khoán là một nghệ thuật hơn là một ngành khoa học chính xác. Vì vậy
cần phải sử dụng kết hợp nhiều phương pháp khác nhau để đạt đến kết quả tốt
nhất. Thậm chí ngay trong cùng một phương pháp cũng có nhiều cách sử dụng khác
nhau tùy thuộc vào ngữ cảnh cụ thể. Vì vậy cần phải trải qua rèn luyện kiến
thức và thực hành để tự đào tạo bản thân đạt được sự nhạy bén và chính xác
mà không một phương pháp nào có thể đạt được
0 Comments